kỹ năng viết đoạn văn nghị luận

Đối tượng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu về kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội ( khoảng 200 chữ). Từ đó đưa ra định hướng, cách thức dễ hiểu nhất giúp học sinh tiếp cận, nhận diện và có kĩ năng làm dạng đề này. Đối tượng áp dụng của sáng kiến là học sinh lớp 12A2 và học sinh ôn khối C, D của trường THPT Quan Sơn 2. 1.4. - Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận, hoàn thành đoạn văn ghi lại cảm xúc sau khi đọc một bài thơ. - Năng lực tiếp thu tri thức, kĩ năng viết đoạn văn. Phẩm chất: - Nghiêm túc trong học tập. THIẾT BỊ DẠY HỌC VÀ HỌC LIỆU; Chuẩn bị của giáo viên: - Giáo án; 01:16:10 Bài 6: Hướng dẫn viết đoạn văn NLXH - Bài số 1. Hỏi đáp. 8. 01:00:52 Bài 7: Hướng Chuyên đề 4: Kỹ năng làm bài Nghị luận văn học; 225.000đ Chuyên đề 5: Ôn tập chương trình Ngữ văn lớp 11; 145.000đ Câu 3: Dòng nào giải thích đúng về thao tác nghị luận? A. Các bước và các giai đoạn cụ thể trong việc lập một bài văn nghị luận có tính chất thường xuyên. B. Các động tác được thực hiện theo đúng trình tự và yêu cầu kỹ thuật quy định trong hoạt động thảo luận. kiến thức xã hội để làm văn NLXH, có kĩ năng viết đoạn văn NLXH nhằm đáp ứng yêu cầu việc đổi mới kiểm tra đánh giá của bộ GD và ĐT. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu mang tính thực tế cao, nhằm đưa ra cách viết một đoạn văn NLXH khoa học, hiệu quả, có thể áp dụng rộng rãi cho giáo viên và học sinh trong dạy, học, thi môn Ngữ văn. Site De Rencontre Fiable Et Serieux. Nghị luận xã hội và nghị luận văn học là hai nội dung lớn và xuyên suốt trong hầu hết các đề thi ngữ văn, đặc biệt là kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 và kỳ thi THPT Quốc năng viết văn nghị luậnVì vậy, việc trang bị các kỹ năng cần thiết để viết được một bài văn, một đoạn văn nghị luận là vô cùng quan trọng trong đề thi, cộng cả phần nghị luận xã hội và nghị luận văn học vào có thể lên tới 50-70% tỉ trọng số điểm.Do đó, trong series cẩm nang học tốt bộ môn Ngữ Văn này, Dehoctot chia sẻ giúp bạn Kỹ năng viết văn nghị luận [Phần 1].+ Tùy theo nhiệm vụ, các đoạn văn được chia làm đoạn giới thiệu, đoạn nghị luận, đoạn minh họa, đoạn chuyên tiếp, đoạn tiểu kết, đoạn tổng kết.+ Cũng do nhiệm vụ khác nhau nên vị trí các đoạn khác nhau. Đoạn giới thiệu thường đứng ở đầu bài văn đoạn mở bài. Đoạn nghị luận, đoạn minh họa đứng giữa thân bài bài văn, giữa các phần của bài. Đoạn chuyển tiếp, đứng ở ranh giới giữa các phần của bài, của các đoạn kia. Đoạn tổng kết nằm ở cuối bài văn kết bài.Mỗi loại đoạn có một cấu tạo riêng với một mô hình cơ bản của những biến thể. Mô hình cơ bản của đoạn văn nghị luận là diễn dịch. Diễn dịch là đoạn có câu chứa nội dung thông tin chung, khái quát của cả đoạn thường là một luận điểm lớn hoặc nhỏ đứng ở vị trí đầu đoạn câu này gọi là câu chủ đề, các câu tiếp theo dẫn giải, triển khai nội dung của câu chủ đề. Câu chủ đề thông thường là một câu, song cũng có khi là hai hoặc ba câu. Về mặt cấu tạo ngữ pháp, câu chủ đề thường là câu đơn, có đủ chủ ngữ, vị cầu khi viết đoạn văn nghị luậnBước 1 Xác định các luận điểm, luận cứ thường gọi là ý chínhBước 2 Xác định câu chủ đềBước 3 Sử dụng phép liên kết và cách dùng từ trong đoạn văn nghị luậnTrong văn nghị luận muốn chuyển đoạn, liên kết đoạn người ta có thể dùng các quan hệ từ, dùng từ ngữ liệt kê,dùng từ ngữ thể hiện ý tổng kết… Ngoài ra còn sử dụng câu nối để liên kết đoạn cục của đoạn văn nghị luậnĐoạn văn nghị luận thường có 3 phần – Phần mở đoạn viết những câu dẫn dắt là những câu liên quan đến vấn đề chính sẽ nêu. – Phần giữa đoạn nêu vấn đề chính sẽ bàn trong thân bài tức là luận đề. Vấn đề chính này có thể đã chỉ rõ, có thể người viết tự rút ra, tự khái quát. – Phần kết đoạn nêu phương thức nghị luận và phạm vi tự luận sẽ trình bày. Phần này đề bài thường xác định sẵn. Người viết chỉ giới thiệu hoặc ghi lại đoạn trích, câu trích ở đầu dẫn cách mở bài cho bài nghị luậnCó 2 cách làm bài cơ bảnMở bài trực tiếpĐi thẳng vào vấn đề cần nghị luận, không câu nệ câu chữ, ý điểm thường nêu ra được vấn đề một cách trực tiếp nhất và rõ ràng nhất. Hạn chế không có cảm xúc,ít khi có được sự mềm mại, uyển chuyển, linh hoạt, khơi gợi mà một mở bài cần có và nên có. Mở bài như một lời mở đầu nếu không hấp dẫn người đọc thì sẽ không có hứng khởi để đọc tiếp phần tiếp bài gián tiếpBắt đầu từ một khía cạnh liên quan đến vấn đề cần nghị luận. Từ đó người viết dẫn dắt một cách khéo léo và có liên kết đến vấn đề chính mà đề bài yêu 4 cách mở bài theo lối gián tiếp Diễn dịch, quy nạp, tương liên, đối lập. Diễn dịch nêu những ý kiến khái quát về vấn đề đặt ra trong đề bài rồi mới bắt đầu vào vấn đề ấy. Quy nạp nêu những ý nhỏ hơn vấn đề đặt ra trong đề bài rồi mới tổng hợp lại vấn đề cần nghị luận. Tương liên nêu lên một ý giống như ý trong đề rồi bắt sang vấn đề cần nghị luận. Ý được nêu ra có thể là một câu tục ngữ, ca dao, danh ngôn, một nhận định hoặc chân lí phổ biến… Đối lập nêu những ý kiến trái ngược với ý trong đề bài rồi lấy đó làm cớ chuyển sang vấn đè cần nghị tắc làm mở bài+ Cần nêu đúng vấn đề đặt ra trong đề bài nếu đề bài yêu cầu giải thích, chứng minh, phân tích hay bình luận một ý kiến thì phải dẫn lại nguyên văn ý kiến đó trong phần mở bài. + Chỉ được phép nêu những ý khái quát, tuyệt đối không được lấn sang phần thân bài, giảng giải minh họa hay nhận xét ý kiến trong phần thân bài. + Để không tốn thời gian làm phần mở bài trong các kì thi, cần chuẩn bị sẵn một số hướng mở bài cho từng dạng dụ về mở bài Câu hỏi Phân tích hình tượng Đất Nước trong 9 câu thơ đầu trong đoạn trích Đất Nước Trường ca “ Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa cách mở bài+ Mở bài trực tiếp Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Ông từng là Bộ trưởng Bộ văn hóa thông tin, nay đã nghỉ hưu. Các tác phẩm tiêu biểu Đất ngoại ô, trường ca Mặt đường khát vọng. Đất nước được trích từ chươngV trường ca Mặt đường khát vọng được hoàn thành ở chiến trường BìnhTrịThiên năm 1971, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ miền Nam xuống đường tranh đấu hòa hợp với cuộc kháng chiến của dân tộc. Đoạn thơ sau đã để lại dấu ấn về nội dung và nghệ thuật sâu sắc nhất.+ Mở bài gián tiếpDiễn dịch Đất Nước từ lâu đã là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca nói riêng và nghệ thuật nói chung. Nếu như các nhà thơ cùng thời thường chọn điểm nhìn về Đất Nước bằng những hình ảnh kỳ vĩ, mỹ lệ hay cảm hứng về lịch sử qua các triều đại thì Nguyễn Khoa Điềm lại chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc bình dị để miêu tả về Đất Nước. Đến với đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm ta như đứng trước muôn màu văn hóa, truyền thống, phong tục tươi đẹp vô ngần. Vẻ đẹp ấy được hiện lên sâu sắc nhất qua chín câu thơ nạp Có mối tình nào hơn Tổ quốc? Ngay trong những ngày đầu Cách mạng tháng Tám, nhà thơ Trần Mai Ninh đã viết say sưa như thế. Chất chứa trong lòng nhiệt huyết yêu nước, Nguyễn Khoa Điềm đã truyền lửa cho thế hệ trẻ những năm chống Mỹ bằng việc khắc họa vẻ đẹp bình dị và hào hùng của mảnh đất Việt. Đất Nước sinh thành từ những ngày xửa ngày xưa, từ miếng trầu bây giờ bà ăn lúc dân mình biết trồng tre mà đánh liên Chúng ta đã bắt gặp đất nước chìm trong đau thương, mất mát qua thơ Hoàng Cầm; gặp đất nước đang đổi mới từng ngày qua thơ Nguyễn Đình Thi, một quê hương với những kỉ niệm tuổi thơ qua thơ Giang Nam. Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh, đầy đủ và trọn vẹn nhất qua bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm. Hình hài đất nước từ khi được sinh ra cho đến khi phải trải qua bao nhiêu sóng gió chiến tranh được tái diễn sinh động qua một hồn thơ tinh tế, phóng khoáng của Nguyễn Khoa Điềm. Tác giả nhìn đất nước từ nhiều khía cạnh, trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử. Đất nước là tên gọi thiêng liêng , bình dị nhưng chất chứa bao nhiêu ngọn nguồn cảm xúc của chính tác phần thân bài cho bài văn nghị luận Thân bài là phần dài nhất và quan trọng nhất của bài văn. Bản chất của thân bài là viết các đoạn văn nghị luận để triển khai các luận điểm luận cứ. Nên phân tích mỗi ý thành một đoạn , giữa các đoạn có sự lên kết chặt chẽ cùng hướng về nội dung mà đề yêu cầu có thể dùng câu hay đoạn liên kết.Cách triển khai phần thân bài– Nêu luận điểm 1 – luận cứ 1 – luận cứ 2,… Các luận điểm, luận cứ này chính là các ý 1,2,3…ý a, ýb,..mà các thầy cô đã giảng dạy trong bài học về tác phẩm ấy. Các em cần chỉ ra giá trị nội dung thứ nhất là gì, trong đó chứa đựng giá trị nghệ thuật gì?, giá trị tư tưởng tình cảm gì?,…– Nêu luận điểm 2 – luận cứ 1 – luận cứ 2,… Cần chỉ ra giá trị nội dung thứ 2, trong đó chứa đựng giá trị nghệ thuật gì, giá trị tư tưởng tình cảm gì? ,…– Luận điểm n– Nhận định chung khắc sâu các luận điểm so sánh và liên hệ thực tế. Mở rộng thêm ở các tác phẩm văn học và nêu hạn chế của nó nếu có.Những điều cần lưu ý khi viết thân bài– Thân bài là phần trọng tâm có nhiệm vụ + Phát triển những ý chính đã nêu ở phần mở bài . + Duy trì sự chú ý người đọc .Viết đoạn văn kết bàiĐoạn văn kết bài trong bài văn nghị luận thường nêu ý khái quát, có tính chất tổng kết, đánh giá. Dehoctot mách bạn bốn cách kết bài hiệu quả như sau Thứ nhất tóm lược tóm tắt quan điểm, nội dung đã nêu ở thân bài. Thứ hai phát triển mở rộng thêm vấn đề đặt ra trong đề bài. Thứ ba vận dụng nêu phương hướng, bài học áp dụng phát huy hay khắc phục vấn đề nêu trong bài văn Thứ tư liên tưởng mượn ý kiến tương tự – những ý kiến có uy tín – để thay cho lời tóm tắt của người làm bài.Lời kếtQua nội dung bài ở trên, chắc chắn bạn sẽ phần nào hình dung ra được bố cục, cách thức xây dựng ý tưởng và viết đoạn văn, bài văn nghị luận. Thực chất làm văn nghị luận không quá khó như các bạn nghĩ. Lưu ý là đầu xuôi, đuôi mới lọt; các bạn hãy rèn cho mình các kỹ năng diễn đạt và trình bày đoạn văn, đặc biệt là phần mở bài và câu mở đầu đoạn chúc bạn học tốt và thành công! Tiến sĩ Trịnh Thu Tuyết, giáo viên Ngữ Văn tại Hệ thống Giáo dục HOCMAI chia sẻ các kỹ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội dành cho sĩ tử sắp bước vào kỳ thi Tốt nghiệp THPT 2020. Theo Tiến sĩ Thu Tuyết, từ kỳ thi THPT Quốc gia 2017, yêu cầu viết bài văn nghị luận xã hội khoảng 600 từ đã thay thế bằng yêu cầu viết đoạn văn nghị luận xã hội khoảng 200 chữ. Đó là thay đổi lớn, kéo theo nhiều vấn đề về kiến thức, kỹ năng trong quá trình ôn luyện và làm bài thí sinh cần lưu ý. Tiến sĩ Trịnh Thu Tuyết, giáo viên Ngữ Văn tại Hệ thống Giáo dục HOCMAI Đặc điểm của dạng đề viết đoạn văn Nghị luận xã hội Để thấy được đặc điểm và yêu cầu của dạng bài viết đoạn văn nghị luận xã hội, trước hết học sinh quan sát lại các đề thi chính thức của những năm gần đây. Đề thi THPT Quốc gia năm 2017 Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu "Thiện, Ác và smartphone" - Đặng Hoàng Giang, anh/chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của sự thấu cảm trong cuộc sống. Đề thi THPT Quốc gia năm 2018 Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu Đánh thức tiềm lực - Nguyễn Duy, anh/chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ về sứ mệnh đánh thức tiềm lực đất nước của mỗi cá nhân trong cuộc sống hiện nay. Đề thi THPT Quốc gia năm 2019 Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu Trước biển - Vũ Quần Phương, anh/chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ về sức mạnh ý chí con người trong cuộc sống. Đề tham khảo thi THPT Quốc gia lần 1/2020 Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu "Đánh thức con người phi thường trong bạn" - Anthony Robbins, hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ của anh/chị về những hành động nhỏ làm nên người anh hùng giữa đời thường. Đề tham khảo thi Tốt nghiệp THPT lần 2/2020 Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu "Tất cả chỉ là chuyện nhỏ" - Richard Carlson, anh/chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ về sự cần thiết phải tôn trọng quan điểm của người khác. Quan sát năm đề trên, chúng ta sẽ rút ra nhận xét về những đặc điểm quan trọng của dạng đề viết đoạn văn nghị luận xã hội, cụ thể Từ cấu trúc ngôn từ quen thuộc trong các đề "Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu...", nội dung nghị luận có quan hệ hữu cơ với nội dung chính của ngữ liệu đọc hiểu. Đặc điểm này chỉ có từ kỳ thi năm 2017, khi đề bài yêu cầu viết đoạn văn nghị luận xã hội từ một nội dung nào đó trong ngữ liệu đọc hiểu, thay vì bài văn nghị luận xã hội độc lập. Điều này mang đến thuận lợi cho học sinh trong quá trình làm bài khi các em có được những gợi ý quan trọng ngay từ việc suy nghĩ và trả lời các câu hỏi đọc hiểu trước đó. Tuy nhiên, các em cũng cần lưu ý tránh sự trùng lặp ý giữa câu hỏi đọc hiểu và nội dung đoạn văn nghị luận xã hội. Câu lệnh trong đề luôn xác định rõ hai yêu cầu của đoạn văn, trước hết là một trong những yêu cầu về hình thức đoạn văn viết đúng dung lượng theo yêu cầu đặt ra trong câu lệnh của đề bài; sau đó là yêu cầu về nội dung nghị luận, đó là một khía cạnh, một bình diện, một ý nhỏ trong vấn đề lớn. Quan sát 5 đề đã dẫn phía trên, hầu hết nội dung nghị luận đều hướng tới tư tưởng đạo lý - do vậy cần lưu ý thêm dạng đề nghị luận về một hiện tượng xã hội. Ví dụ hiện tượng bạo lực học đường/ hội chứng đám đông/ phong trào thiện nguyện trong xã hội thời hiện đại/ các trào lưu sử dụng mạng xã hội... Những lưu ý về kỹ năng viết đoạn văn Nghị luận xã hội Hình thức đoạn văn. Đoạn văn phải đảm bảo đúng dung lượng theo yêu cầu của đề bài, thông thường là 200 chữ khoảng 20 tới 23 dòng, tránh viết quá dài hoặc quá ngắn. Đoạn văn có thể tùy ý lựa chọn các cấu trúc song hành, móc xích, quy nạp, diễn dịch hay tổng phân hợp... nhưng phải đúng cấu trúc đoạn văn Không xuống dòng giữa đoạn; đoạn văn bắt đầu bằng chữ cái viết hoa và lùi vào một chữ ở đầu dòng và kết thúc bằng dấu ngắt câu - có thể là dấu chấm, chấm than, ba chấm hoặc chấm hỏi tùy theo kiểu câu phù hợp với nội dung kết đoạn. Lưu ý về yêu cầu quan trọng với nội dung đoạn văn. Để xác định đúng nội dung nghị luận, các em cần phân biệt bài văn nghị luận xã hội với đoạn văn nghị luận xã hội. Nếu bài văn nghị luận về một vấn đề chủ đề - ý lớn trong cuộc sống xã hội thì đoạn văn chỉ nghị luận trọn vẹn một khía cạnh của vấn đề tiểu chủ đề - ý nhỏ. Điều các em cần lưu ý là tuyệt đối không triển khai hệ thống ý nghị luận của tổng thể vấn đề khiến đoạn văn trở thành bài văn thu nhỏ. Tuy chỉ nghị luận về một khía cạnh, một bình diện nhỏ trong vấn đề lớn, để nội dung nghị luận trong đoạn văn mạch lạc, khúc chiết, bản thân bình diện tiểu chủ đề ấy cũng phải được triển khai thành hệ thống ý nhỏ hơn. Sau đây là một số gợi ý về việc triển khai hệ thống ý trong đoạn văn mà các em có thể tham khảo - Nếu đề yêu cầu luận về nguyên nhân của quan niệm/ hiện tượng..., có thể triển khai theo các hệ thống ý sau Thứ nhất là nguyên nhân chủ quan/ nguyên nhân khách quan; thứ hai là các nguyên nhân từ gia đình/ nhà trường/ xã hội/ bản thân; thứ ba có thể nguyên nhân từ bản thân mỗi cá nhân với nhận thức, tâm lý, công việc, hoàn cảnh sống... - Nếu đề yêu cầu luận về sự chi phối của một cách sống/ cách nghĩ/ hiện tượng xã hội... tùy theo tính tích cực hay tiêu cực mà câu lệnh có thể dùng từ "ý nghĩa" hay "hậu quả"... Đề thi THPT Quốc gia năm 2017 - "ý nghĩa" sự thấu cảm, đề thi THPT Quốc gia năm 2019 - "sức mạnh" của ý chí, hai đề tham khảo năm 2020 - lần một thiếu từ "ý nghĩa" hành động nhỏ làm nên người anh hùng giữa đời thường. Lần hai "sự cần thiết" phải tôn trọng quan điểm của người khác...., các em có thể triển khai theo các hệ thống ý sau Thứ nhất là sự chi phối với cá nhân/ cộng đồng xã hội; thứ hai là sự chi phối với tâm lý, tính cách, thân phận con người...; thứ ba là sự chi phối theo thời gian hiện tại và tương lai... - Nếu đề yêu cầu luận về giải pháp thực hiện một cách sống, cách nghĩ... các em có thể triển khai theo các hệ thống ý sau giải pháp từ cá nhân tới cộng đồng; giải pháp xuất phát từ nhận thức đến hành động; giải pháp trước mắt và lâu dài... - Nếu đề yêu cầu trình bày nhiệm vụ/ sứ mệnh/ bài học cho bản thân từ nội dung vấn đề của tư tưởng đạo lý hoặc hiện tượng xã hội... có thể triển khai theo hai ý cơ bản sau Ý thức - hành động Ví dụ đáp án đề Trung học phổ thông Quốc gia năm 2018. Tóm lại, để viết một đoạn văn nghị luận xã hội đúng và hay, trước hết, các em cần xác định chính xác nội dung nghị luận, đó là một khía cạnh của vấn đề trong phần Đọc hiểu, cũng là vấn đề được thể hiện ngay trong cụm từ ngữ phía sau bình diện nghị luận theo yêu cầu, ví dụ "... viết một đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của sự thấu cảm trong cuộc sống" đề năm 2017 thì "sự thấu cảm" là vấn đề, còn "ý nghĩa" là khía cạnh cần nghị luận trong đoạn văn đó. Tiếp theo, phải nghị luận theo hệ thống ý nhỏ hơn rành mạch, khúc chiết; sử dụng văn phong giản dị, trong sáng, cách lập luận chặt chẽ và thuyết phục. Cần nhớ một kinh nghiệm giúp các em thành công trong câu nghị luận xã hội, đó là chân thành trong xúc cảm, trung thực trong suy nghĩ, độc lập với những kiến giải của riêng mình, tránh văn mẫu, đừng bao giờ nghĩ bằng đầu người khác và yêu không phải bằng trái tim mình. Nguồn VnExpress Tiến sĩ Trịnh Thu Tuyết, giáo viên Ngữ Văn tại Hệ thống Giáo dục HOCMAI chia sẻ các kỹ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội dành cho sĩ tử sắp bước vào kỳ thi Tốt nghiệp THPT 2020. Theo Tiến sĩ Thu Tuyết, từ kỳ thi THPT Quốc gia 2017, yêu cầu viết bài văn nghị luận xã hội khoảng 600 từ đã thay thế bằng yêu cầu viết đoạn văn nghị luận xã hội khoảng 200 chữ. Đó là thay đổi lớn, kéo theo nhiều vấn đề về kiến thức, kỹ năng trong quá trình ôn luyện và làm bài thí sinh cần lưu ý. Tiến sĩ Trịnh Thu Tuyết, giáo viên Ngữ Văn tại Hệ thống Giáo dục HOCMAI Đặc điểm của dạng đề viết đoạn văn Nghị luận xã hội Để thấy được đặc điểm và yêu cầu của dạng bài viết đoạn văn nghị luận xã hội, trước hết học sinh quan sát lại các đề thi chính thức của những năm gần đây. Đề thi THPT Quốc gia năm 2017 Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu “Thiện, Ác và smartphone” – Đặng Hoàng Giang, anh/chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của sự thấu cảm trong cuộc sống. Đề thi THPT Quốc gia năm 2018 Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu Đánh thức tiềm lực – Nguyễn Duy, anh/chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ về sứ mệnh đánh thức tiềm lực đất nước của mỗi cá nhân trong cuộc sống hiện nay. Đề thi THPT Quốc gia năm 2019 Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu Trước biển – Vũ Quần Phương, anh/chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ về sức mạnh ý chí con người trong cuộc sống. Đề tham khảo thi THPT Quốc gia lần 1/2020 Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu “Đánh thức con người phi thường trong bạn” – Anthony Robbins, hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ của anh/chị về những hành động nhỏ làm nên người anh hùng giữa đời thường. Đề tham khảo thi Tốt nghiệp THPT lần 2/2020 Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu “Tất cả chỉ là chuyện nhỏ” – Richard Carlson, anh/chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ về sự cần thiết phải tôn trọng quan điểm của người khác. Quan sát năm đề trên, chúng ta sẽ rút ra nhận xét về những đặc điểm quan trọng của dạng đề viết đoạn văn nghị luận xã hội, cụ thể Từ cấu trúc ngôn từ quen thuộc trong các đề “Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu…”, nội dung nghị luận có quan hệ hữu cơ với nội dung chính của ngữ liệu đọc hiểu. Đặc điểm này chỉ có từ kỳ thi năm 2017, khi đề bài yêu cầu viết đoạn văn nghị luận xã hội từ một nội dung nào đó trong ngữ liệu đọc hiểu, thay vì bài văn nghị luận xã hội độc lập. Điều này mang đến thuận lợi cho học sinh trong quá trình làm bài khi các em có được những gợi ý quan trọng ngay từ việc suy nghĩ và trả lời các câu hỏi đọc hiểu trước đó. Tuy nhiên, các em cũng cần lưu ý tránh sự trùng lặp ý giữa câu hỏi đọc hiểu và nội dung đoạn văn nghị luận xã hội. Câu lệnh trong đề luôn xác định rõ hai yêu cầu của đoạn văn, trước hết là một trong những yêu cầu về hình thức đoạn văn viết đúng dung lượng theo yêu cầu đặt ra trong câu lệnh của đề bài; sau đó là yêu cầu về nội dung nghị luận, đó là một khía cạnh, một bình diện, một ý nhỏ trong vấn đề lớn. Quan sát 5 đề đã dẫn phía trên, hầu hết nội dung nghị luận đều hướng tới tư tưởng đạo lý – do vậy cần lưu ý thêm dạng đề nghị luận về một hiện tượng xã hội. Ví dụ hiện tượng bạo lực học đường/ hội chứng đám đông/ phong trào thiện nguyện trong xã hội thời hiện đại/ các trào lưu sử dụng mạng xã hội… Những lưu ý về kỹ năng viết đoạn văn Nghị luận xã hội Hình thức đoạn văn. Đoạn văn phải đảm bảo đúng dung lượng theo yêu cầu của đề bài, thông thường là 200 chữ khoảng 20 tới 23 dòng, tránh viết quá dài hoặc quá ngắn. Đoạn văn có thể tùy ý lựa chọn các cấu trúc song hành, móc xích, quy nạp, diễn dịch hay tổng phân hợp… nhưng phải đúng cấu trúc đoạn văn Không xuống dòng giữa đoạn; đoạn văn bắt đầu bằng chữ cái viết hoa và lùi vào một chữ ở đầu dòng và kết thúc bằng dấu ngắt câu – có thể là dấu chấm, chấm than, ba chấm hoặc chấm hỏi tùy theo kiểu câu phù hợp với nội dung kết đoạn. Lưu ý về yêu cầu quan trọng với nội dung đoạn văn. Để xác định đúng nội dung nghị luận, các em cần phân biệt bài văn nghị luận xã hội với đoạn văn nghị luận xã hội. Nếu bài văn nghị luận về một vấn đề chủ đề – ý lớn trong cuộc sống xã hội thì đoạn văn chỉ nghị luận trọn vẹn một khía cạnh của vấn đề tiểu chủ đề – ý nhỏ. Điều các em cần lưu ý là tuyệt đối không triển khai hệ thống ý nghị luận của tổng thể vấn đề khiến đoạn văn trở thành bài văn thu nhỏ. Tuy chỉ nghị luận về một khía cạnh, một bình diện nhỏ trong vấn đề lớn, để nội dung nghị luận trong đoạn văn mạch lạc, khúc chiết, bản thân bình diện tiểu chủ đề ấy cũng phải được triển khai thành hệ thống ý nhỏ hơn. Sau đây là một số gợi ý về việc triển khai hệ thống ý trong đoạn văn mà các em có thể tham khảo – Nếu đề yêu cầu luận về nguyên nhân của quan niệm/ hiện tượng…, có thể triển khai theo các hệ thống ý sau Thứ nhất là nguyên nhân chủ quan/ nguyên nhân khách quan; thứ hai là các nguyên nhân từ gia đình/ nhà trường/ xã hội/ bản thân; thứ ba có thể nguyên nhân từ bản thân mỗi cá nhân với nhận thức, tâm lý, công việc, hoàn cảnh sống… – Nếu đề yêu cầu luận về sự chi phối của một cách sống/ cách nghĩ/ hiện tượng xã hội… tùy theo tính tích cực hay tiêu cực mà câu lệnh có thể dùng từ “ý nghĩa” hay “hậu quả”… Đề thi THPT Quốc gia năm 2017 – “ý nghĩa” sự thấu cảm, đề thi THPT Quốc gia năm 2019 – “sức mạnh” của ý chí, hai đề tham khảo năm 2020 – lần một thiếu từ “ý nghĩa” hành động nhỏ làm nên người anh hùng giữa đời thường. Lần hai “sự cần thiết” phải tôn trọng quan điểm của người khác.…, các em có thể triển khai theo các hệ thống ý sau Thứ nhất là sự chi phối với cá nhân/ cộng đồng xã hội; thứ hai là sự chi phối với tâm lý, tính cách, thân phận con người…; thứ ba là sự chi phối theo thời gian hiện tại và tương lai… – Nếu đề yêu cầu luận về giải pháp thực hiện một cách sống, cách nghĩ… các em có thể triển khai theo các hệ thống ý sau giải pháp từ cá nhân tới cộng đồng; giải pháp xuất phát từ nhận thức đến hành động; giải pháp trước mắt và lâu dài… – Nếu đề yêu cầu trình bày nhiệm vụ/ sứ mệnh/ bài học cho bản thân từ nội dung vấn đề của tư tưởng đạo lý hoặc hiện tượng xã hội… có thể triển khai theo hai ý cơ bản sau Ý thức – hành động Ví dụ đáp án đề Trung học phổ thông Quốc gia năm 2018. Tóm lại, để viết một đoạn văn nghị luận xã hội đúng và hay, trước hết, các em cần xác định chính xác nội dung nghị luận, đó là một khía cạnh của vấn đề trong phần Đọc hiểu, cũng là vấn đề được thể hiện ngay trong cụm từ ngữ phía sau bình diện nghị luận theo yêu cầu, ví dụ “… viết một đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của sự thấu cảm trong cuộc sống” đề năm 2017 thì “sự thấu cảm” là vấn đề, còn “ý nghĩa” là khía cạnh cần nghị luận trong đoạn văn đó. Tiếp theo, phải nghị luận theo hệ thống ý nhỏ hơn rành mạch, khúc chiết; sử dụng văn phong giản dị, trong sáng, cách lập luận chặt chẽ và thuyết phục. Cần nhớ một kinh nghiệm giúp các em thành công trong câu nghị luận xã hội, đó là chân thành trong xúc cảm, trung thực trong suy nghĩ, độc lập với những kiến giải của riêng mình, tránh văn mẫu, đừng bao giờ nghĩ bằng đầu người khác và yêu không phải bằng trái tim mình. Thế Đan SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA TRƯỜNG THPT NGA SƠN - SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI KHOẢNG 200 CHỮ CHO HỌC SINH THPT Người thực hiện Nguyễn Thị Hồng Chức vụ Giáo viên SKKN thuộc lĩnh vực môn Ngữ Văn THANH HÓA NĂM 2020 MỤC LỤC 1. Mở đầu..............................................................................................................1 Lý do chọn đề tài........................................................................................1 Mục đích nghiên cứu..................................................................................2 Đối tượng nghiên cứu.................................................................................2 Phương pháp nghiên cứu............................................................................2 Những điểm mới của SKKN……………………………………………..3 2. Nội dung...........................................................................................................4 Cơ sở lí luận...............................................................................................4 trò, vị trí của văn NLXH................................................................4 thay đổi của văn NLXH trong đề thi hiện nay.........................4 Thực trạng vấn đề trước khi viết sáng kiến................................................4 lợi……………………………………………………………..5 Khó khăn…………………………………………………………….5 Các giải pháp cụ thể...................................................................................5 Văn NLXH..........................................................................................5 luận về tư tưởng đạo lí………………………………………..6 luận về một hiện tượng đời sống……………………………..6 Khái lược về đoạn văn.........................................................................7 Kĩ năng viết đoạn NLXH....................................................................7 Nội dung thực nghiệm và kết quả............................................................10 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm …………………………………...15 3. Kết luận, kiến nghị........................................................................................16 Kết luận....................................................................................................16 Kiến nghị..................................................................................................16 1. Mở đầu Lý do chọn đề tài Những năm gần đây Bộ GD-ĐT ngày càng chú trọng nhiều hơn đến việc nâng cao chất lượng giáo dục ở các cấp học nhằm cung cấp tri thức toàn diện cho người học, đặc biệt là nâng cao chất lượng dạy và học Ngữ văn trong trường phổ thông. Trên cơ sở đó rèn luyện năng lực cảm thụ văn học, bồi dưỡng tình cảm tâm hồn nhân cách chuẩn bị cho các em hành trang tri thức vào đời. Năm học 2016-2017 trong phần Làm văn ở dạng bài NLXH, thay vì học sinh viết bài văn NLXH như các năm trước thì trong cấu trúc đề thi minh họa những năm sau này, trong đề thi mà bộ đưa ra cũng như trong các bộ đề luyện thi của nhiều tác giả đã yêu cầu học sinh viết đoạn văn NLXH. Trong xu thế đổi mới việc dạy và học Ngữ văn nói chung và cụ thể là đổi mới chương trình và sách giáo khoa sau một thời gian thí điểm từ năm học trước Bộ GD và ĐT đã đưa vào sử dụng bộ sách giáo khoa mới theo chương trình phân ban Bỏ đi một số tác phẩm không phù hợp, một số văn bản mới đưa được đưa vào chương trình Ngữ văn. Khi làm bài NLVH các em đã được trang bị kiến thức từ những tiết đọc hiểu văn bản, còn văn NLXH học sinh gặp không ít khó khăn cả về nội dung và phương pháp. Trước đây học sinh đang quen với việc viết bài văn NLXH bằng các thao tác lập luận cần thiết, nay với yêu cầu đổi mới viết một đoạn văn, học sinh sẽ có những lúng túng, bỡ ngỡ. Với học sinh việc viết một bài văn NLXH đã khó, nay phải viết đoạn NLXH lại càng khó hơn. Đây quả là một thử thách đối với học sinh THPT. Là một giáo viên Ngữ Văn đang trực tiếp giảng dạy khối 12, chúng ta phải làm gì để giúp học sinh có được kĩ năng cần thiết viết đoạn văn NLXH một cách tốt nhất. Nỗi băn khoăn, sự trăn trở và suy nghĩ của tôi cũng là của tất cả giáo viên Ngữ văn THPT mong muốn học sinh tiếp cận vấn đề, giải quyết vấn đề đặt ra và viết tốt đoạn NLXH để làm bài thi TNTHPT đạt hiệu quả đó bồi dưỡng cho các em lòng yêu thích và niềm đam mê học môn Ngữ văn, giúp các em hiểu đời hiểu người, có đời sống tình cảm tâm hồn thêm phong phú và hình 1 thành được kĩ năng sống cần thiết. Đồng thời những vấn đề đặt ra từ đề bài văn NLXH góp phần thực hiện mục đích giáo dục hoàn thiện nhân cách cho học sinh giúp các em có thêm tri thức để bước vào đời. Với đề tài “Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn NLXH khoảng 200 chữ cho học sinh THPT”, người viết muốn chia sẻ với đồng nghiệp phương pháp dạy học sinh viết đúng, viết nhanh, viết hay một đoạn văn NLXH nhằm đạt được số điểm tối đa như một cách các em chinh phục bản thân và qua bài viết chúng ta có thể đánh giá phần nào về nhận thức, hiểu biết, tâm lí, mục đích sống, các kĩ năng trong đó có kĩ năng viết văn và thái độ với môn Ngữ văn của học sinh hiện nay. Cần thay đổi cách nghĩ và khoa học hóa cách làm. Thực chất với một yêu cầu mới, cả người dạy và người học đều cần chuẩn bị về tâm lí, kĩ năng phù hợp để có sự thích nghi tốt nhất và hoàn toàn có thể định lượng về mặt thời gian, dung lượng kiến thức, số lượng dòng cho bài làm. Đó là lí do mà tôi chọn đề tài này. Mục đích nghiên cứu Mục đích của tôi nghiên cứu đề tài này nhằm giúp học sinh vận dụng hiểu biết kiến thức xã hội để làm văn NLXH, có kĩ năng viết đoạn văn NLXH nhằm đáp ứng yêu cầu việc đổi mới kiểm tra đánh giá của bộ GD và ĐT. Đối tượng nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu mang tính thực tế cao, nhằm đưa ra cách viết một đoạn văn NLXH khoa học, hiệu quả, có thể áp dụng rộng rãi cho giáo viên và học sinh trong dạy, học, thi môn Ngữ văn. Phương pháp nghiên cứu Ở đề tài này, người viết đã vận dụng linh hoạt nhiều phương pháp nghiên cứu nhằm phát huy hiệu quả tổng hợp ưu thế của các phương pháp. Trong đó các phương pháp được sử dụng chủ yếu là - Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết. - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin từ các nguồn tài liệu ôn thi, các đề thi thử nghiệm, các đề thi thử của các trường THPT, các đề 2 thi học sinh giỏi của các tỉnh và khu vực, các báo cáo, luận văn của sinh viên, thạc sĩ,…. - Phương pháp tâm lí. - Phương pháp so sánh. - Phương pháp thử nghiệm thực tiễn. Những điểm mới của SKKN *Tính mục đích Đề tài đã giải quyết được những mâu thuẫn, những khó khăn gì có tính chất thời sự trong công tác giảng dạy, giáo dục học sinh. Tác giả viết SKKN nhằm mục đích gì? nâng cao nghiệp vụ công tác của bản thân, để trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp, để tham gia nghiên cứu khoa học… . *Tính thực tiễn Tác giả trình bày được những sự kiện đã diễn ra trong thực tiễn công tác giảng dạy, giáo dục của mình. Những kết luận được rút ra trong đề tài phải là sự khái quát hóa từ những sự thực phong phú, những họat động cụ thể đã tiến hành cần tránh việc sao chép sách vở mang tính lý thuyết đơn thuần, thiếu tính thực tiễn. *Tính sáng tạo khoa học Trình bày được cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn làm chỗ dựa cho việc giải quyết vấn đề đã nêu ra trong đề tài. Trình bày một cách rõ ràng, mạch lạc các bước tiến hành trong SKKN. Các phương pháp tiến hành mới mẻ, độc đáo. Dẫn chứng các tư liệu, số liệu và kết quả chính xác làm nổi bật tác dụng, hiệu quả của SKKN đã áp dụng. Tính khoa học của một đề tài SKKN được thể hiện cả trong nội dung lẫn hình thức trình bày đề tài cho nên khi viết SKKN, tác giả cần chú ý cả hai điểm này. *Khả năng vận dụng và mở rộng SKKN Trình bày, làm rõ hiệu quả khi áp dụng SKKN có dẫn chứng các kết quả,các số liệu để so sánh hiệu quả của cách làm mới so với cách làm cũ ; Chỉ ra được những điều kiện căn bản, những bài học kinh nghiệm để áp dụng có hiệu quả SKKN, đồng thời phân tích cho thấy triển vọng trong việc vận dụng và phát triển SKKN đã trình bày Đề tài có thể vận dụng trong phạm vi nào? Có thể mở rộng, phát triển đề tài như thế nào? . 3 2. Nội dung Cơ sở lí luận Vai trò, vị trí của văn NLXH * Trong đời sống NLXH được ứng dụng rộng rãi trong đời sống, các bài bình luận về xã hội, về một hiện tượng một vấn đề, thuộc lĩnh vực chính trị xã hội, văn hóa, kinh tế. Dù tồn tại ở dang nói hay dang viết thì nó luôn có vai trò và vị trí quan trọng trong đời sống xã hội. Nó giúp con người nhìn nhận một cách đầy đủ cập nhật khách quan các vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống hàng ngày. * Trong nhà trường THPT Trong chương trình Ngữ văn THPT phần Làm văn nghị luận xã hội được đặc biệt quan tâm. Ngay từ lớp 11 hoc sinh được thực hành khá kĩ, ở lớp 12 học sinh còn được học hai bài lí thuyết Nghị luận về một tư tưởng đạo lí và một hiện tượng đời sống. Ngoài ra học sinh còn được thực hành viết khá nhiều, ở các bài thi học kì, các kì thi khảo sát chất lượng và ra các đề cho học sinh luyện tập. Như vậy ta thấy rằng NLXH có vị trí rất quan trọng trong nhà trường, ở đó học sinh không chỉ được tiếp cận các dạng NLXH, mà còn được thực hành tạo lập văn bản, giúp các em hoàn thiện kiến thức và kĩ năng làm văn. thay đổi của văn NLXH trong đề thi hiện nay Với những đổi mới của đề thi TNTHPT từ năm 2017 do Bộ GD và ĐT ban hành thì cấu trúc đề thi Ngữ văn có sự thay đổi Thời gian làm bài thi từ 180 phút nay xuống còn 120 phút. Câu NLXH 3 điểm viết bài văn nay viết một đoạn văn khoảng 200 chữ. Câu đọc hiểu và NLXH có sự tích hợp theo hướng vận dụng cao, điều này gây không ít khó khăn cho học sinh. Nhiều em đã quen với việc viết bài văn NLXH nên sẽ rất lúng túng khi đề bài yêu cầu viết đoạn văn NLXH, dẫn đến tình trạng viết lan man, viết xa đề bài . Với SKKN, bản thân tôi muốn rèn cho học sinh kĩ năng viết đoạn văn NLXH khoảng 200 chữ để bài thi tốt nghiệp THPT của các em đạt kết quả cao. Thực trạng vấn đề trước khi viết sáng kiến 4 Thuận lợi Bắt đầu từ khi đổi mới chương trình thay sách giáo khoa 2006-2007, các bộ sách giáo khoa, sách giáo viên đã in ấn kịp thời, các phương tiện truyền thông như báo, đài, internet,… rộng khắp đã giúp học sinh chủ động, hứng thú hơn trong việc học tập Ngữ Văn. Hiện nay với sự phát triển của đời sống xã hội thì NLXH đóng vai trò quan trọng. Cái hay của dạng văn này là học sinh không phải học thuộc làm bài, không phụ thuộc tài liệu mà được tự do trình bày suy nghĩ, quan điểm của bản thân về một vấn đề cụ thể, từ đó rút ra những bài học nhận thức và hành động. Vì vậy học sinh cũng có hứng thú hơn khi làm bài NLXH. Khó khăn Bài NLXH đóng vai trò, vị trí quan trọng, học sinh cũng được rèn luyện nhiều nhưng kết quả bài làm của học sinh chưa thực sự tốt. Điều này có nhiều nguyên nhân. + Nhận thức và sự đánh giá nhìn nhận vấn đề của các em còn hạn chế, chưa toàn diện, chưa có sự suy nghĩ sâu . + Viêc tìm hiểu văn NLXH trong nhà trường còn hạn chế . Các bài văn NLXH học sinh viết được ít, trong giảng dạy giáo viên chỉ chủ yếu rèn cho học sinh kĩ năng làm bài NLVH vì liên quan trực tiếp đến các tác phẩm trong chương trình. Vì thế học sinh còn mơ hồ về phương pháp làm bài văn NLXH. Viết một bài nghị luân tốt với các em đã khó nay phải viết đoạn văn NLXH thì lại càng khó hơn. giải pháp cụ thể bài NLXH NLXH thực chất là một phương pháp nghị luận lấy đề tài từ các lĩnh vực Chính trị, đạo đức, xã hội là nội dung bàn bạc nhằm làm sang tỏ cái đúng, sai, tốt, xấu của vấn đề nêu ra. Từ đó đưa ra những cách hiểu thấu đáo về vấn đề nghị luận cũng như vận dụng nó vào đời sống. Cùng với kiểu bài NLVH thì kiểu bài NLXH là nội dung cần thiết trong quá trình học và thi của học sinh. Thông 5 thường sẽ có hai loại chính Nghị luận về một tư tưởng đạo lí và nghị luận về một hiện tượng xã hội. Ngoài ra còn loại nghị luận về một vấn đề xã hội rút ra trong tác phẩm văn học. luân về tư tưởng đạo lí * Khái niệm Nghị luân về tư tưởng đạo lí là dạng nghị luận kết hợp các thao tác lập luân để làm sáng tỏ các vấn đề tư tưởng đạo lí trong đời sống. Cụ thể Nghị luận về quan điểm đạo đức, lối sống, lí tưởng sống; Nghị luận về một quan điểm, về các vấn đề văn hóa, giáo dục, dân tộc; Nghị luận về phương pháp tư tưởng; Nghị luân về mối quan hệ giữa con người – con người, gia đình và ngoài xã hội. *Kĩ năng làm bài - Tìm hiểu đề Đọc kĩ đề bài, chú ý những từ quan trọng, những khái niệm, nghĩa đen, nghĩa bóng, chia vế ngăn đoạn . Nội dung Vấn đề nghị luận là gì? Có bao nhiêu ý, các ý cần triển khai. Thao tác lập luân Sử dụng các thao tác lập luận nào, giải thích, phân tích, bình luận, chứng minh. Phạm vi tư liệu dẫn chứng Dẫn chứng từ thực tế, từ tác phẩm văn học. - Lập dàn ý Giải thích ý kiến Chú ý các khái niệm, các vế, rút ra ý khái quát của vấn đề . Cần giới thiệu một cách ngắn gọn rõ ràng, tránh trình bày chung chung. Phân tích bàn bạc vấn đề trên các phương diện đúng - sai, tốt - xấu, tích cực - tiêu cực, đóng góp - hạn chế cần kết hợp dẫn chứng để chứng minh. Khẳng định ý nghĩa của vấn đề trong lí luận về đời sống thực tiễn. Liên hệ bản thân, rút ra bài học nhận thức và hành động. luận về một hiện tượng đời sống *Khái niệm Nghị luận về hiện tượng đời sống là bài nghị luận có sử dụng các thao tác lập luận để làm người đọc hiểu rõ, đúng, hiểu sâu về những hiện tượng đời sống 6 có ý nghĩa xã hội. Có các dạng như sau Nghị luận về hiện tượng liên quan đến môi trường sống tự nhiên của con người; Nghị luận về một hiện tương liên quan đến môi trường sống xã hội; Nghị luận về một sự việc tích cực đáng biểu dương hoặc tiêu cực đáng phê phán. *Kĩ năng làm bài - Tìm hiểu đề Đọc kĩ đề bài, chú ý những từ quan trọng, những khái niệm, nghĩa đen, nghĩa bóng, chia vế ngăn đoạn, mối tương quan giữa các vế; Về nội dung Vấn đề nghị luận là gì? Có bao nhiêu ý, các ý cần triển khai,... ;Thao tác lập luận; Sử dụng các thao tác lập luận nào, giải thích, phân tích, bình luận, chứng minh; Phạm vi tư liệu, dẫn chứng Dẫn chứng từ thực tế, từ tác phẩm văn học . - Lập dàn ý Giải thích, phân tích, chứng minh biểu hiện nguyên nhân và hậu quả của sự việc, hiện tượng; Bình luận về hiện tượng Nhận xét, nêu thái độ về hiện tượng. Đánh giá hiện tượng tốt, xấu, lợi, hại như thế nào? Phương hướng hành động; Rút ra bài học tư tưởng đạo lí; Xây dựng hệ thống dẫn chứng tiêu biểu. Xác định đoạn văn sẽ viết theo kiểu nào diễn dịch, quy nạp hay tổng - phân - hợp Khái lược về đoạn văn Đoạn văn là một phần của văn bản, nó diễn đạt một ý hoàn chỉnh. Các câu trong đoạn văn liên kết chặt chẽ với nhau, góp phần thể hiện nội dung. Đoạn văn được bắt đầu bằng chữ cái viết hoa lùi đầu dòng và kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng. Các loại đoạn văn đoạn văn diễn dịch, quy nạp, móc xích, song hành, tổng phân hợp. Kĩ năng viết đoạn văn NLXH Để làm tốt câu NLXH, học sinh cần chú ý các bước sau *Bước 1 Đọc kĩ bài đọc hiểu, nắm được nội dung cốt lõi của đoạn văn bản. Xác định xem phần đọc hiểu bàn về vấn đề gì nhất là phải xác định được vấn đề đó 7 thuộc tư tưởng đạo lí hay hiện tượng đời sống; Xác định được các thao tác lập luận. Xác định hệ thống dẫn chứng tiêu biểu. Xác định đoạn văn sẽ viết theo kiểu nào diễn dịch, quy nạp, hay tổng phân hợp Ví dụ Đọc đoạn đọc hiểu sau Những người dễ thoát khỏi những suy nghĩ tiêu cực cũng chính là biết chấp nhận cuộc sống của bản thân. Mỗi người chúng ta đều đều có những điểm mạnh, điểm yếu riêng, bởi vậy khi so sánh bản thân với người khác, chúng ta không chỉ“ thấy khoảng cách” giữa mọi người mà còn thấy được “sự khác biệt” trong mỗi người. Tự bản thân nghĩ như thế nào về mình được gọi là “tự đánh giá bản thân”. Khi một người đánh giá thấp bản thân, anh ta sẽ tự giày vò bản thân bớt cảm giác tự ti, chán ghét chính mình và chỉ nhìn mọi chuyện theo hướng tiêu cực. Cũng có nhiều trường hợp so sánh điểm mạnh của người khác với điểm yếu của bản thân, sau đó tự giam mình trong cảm giác tự ti, mặc cảm. Ngược lại, nếu một người biết đánh giá bản thân phù hợp, dù gặp thất bại thì người đó vẫn tiếp tục hi vọng vào lần sau, tiếp thu thất bại lần này và học hỏi kinh nghiệm trong đó. Tôi có một người quen, anh là một người học rất giỏi, thời đại học anh đi làm người mẫu. Nhìn bề ngoài, anh hoàn hảo đến mức mọi người phải ghen tị, nhưng thực ra anh ấy lại tự đánh giá thấp bản thân. Ngay từ nhỏ anh ấy thường bị bố mẹ so sánh với người khác, bản thân cũng chỉ là kẻ nửa vời mà thôi… chính vì vậy, việc tự đánh giá bản thân ở mức thích hợp là điều quan trọng nhất. Câu nghị luận xã hội được cho là Hãy viết một đoạn văn 200 chữ trình bày suy nghĩ của anh, chị về “việc tự đánh giá bản thân ở mức thích hợp là điều quan trọng nhất”. Như vậy phần NLXH được tích hợp trong phần đọc hiểu. Vậy để làm tốt phần NLXH, học sinh phải đọc kĩ phần đọc hiểu để hiểu được câu trên nằm trong một chỉnh thể mà ở đó tác giả đã dạy chúng ta về việc tự đánh giá bản thân ở mức độ thích hợp là một điều quan trọng. *Bước hai Xây dựng phần mở đoạn 8 Phần mở đoạn viết khoảng 1-3 câu, thể hiện cái nhìn tổng quát, khái quát được nội dung vấn đề cần nghị luận mà đề bài yêu cầu. Nên viết theo hướng Nêu khái quát nội dung - dẫn câu nói vào hoặc trích cụm từ khóa. Ví dụ theo đề trên ta viết như sau Nó giúp mỗi người pháp huy được năng lực, sở trường và khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, ngày càng tự hoàn thiện mình; Giúp chúng ta có một tâm lí thoải mái, vui vẻ, hài lòng với cuộc sống của mình, tránh tự ti mặc cảm. Giúp chúng ta có một cái nhìn tích cực về mọi vấn đề trong cuộc sống Chấp nhận sự khác biệt của mình và những người khác, nhìn thấy gía trị riêng của mỗi người, nhìn thấy hi vọng trong thất bại. *Bước 3 Xây dựng phần thân đoạn Đối với đề nghị luận về tư tưởng đạo lí Phải giải thích được cụm từ khóa, giải thích được cả câu cần ngắn gọn, đơn giản. Bàn luận Đặt ra các câu hỏi Vì sao lại khẳng định như vậy? Có ý nghĩa như thế nào? Khẳng định tính đúng đắn của ý kiến. Dẫn chứng xác thực, phù hợp. Đưa ra phản đề, phê phán mặt trái của ý kiến. Rút ra bài học nhận thức và hành động, liên hệ bản thân. Đối với đề nghị luân về hiện tượng đời sống. Giải thích, phân tích, chứng minh biểu hiện, nguyên nhân và hậu quả của sự việc, hiện tượng. Bình luận, đánh giá về hiện tượng Nêu thái độ đối với hiện tượng. Đánh giá hiện tượng tốt, xấu, lợi, hại như thế nào? Phương hướng, hành động. Rút ra bài học nhân thức về tư tưởng đạo lí. *Bước 4 Xây dựng phần thân đoạn Khẳng định lại vấn đề cần nghị luận. Có thể trình bày bài học nhận thức hành động, liên hệ bản thân ở phần kết đoạn. *Bước 5 Viết đoạn văn “Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản. Trong nhiều trường hợp đoạn văn có khả năng tồn tại độc lập giống như một văn bản bởi xét về mặt nội dung, đoạn văn diễn đạt một ý tương đối trọn vẹn; xét về mặt hình thức, đoạn văn là 9 phần văn bản bắt đầu từ chữ viết hoa lùi vào đầu dòng, kết thúc bằng một dấu chấm xuống dòng, đoạn có một hoặc do nhiều câu liên kết tạo thành” Một đoạn văn bình thường sẽ được tạo nên từ các câu. Ở những vị trí khác nhau các câu có vai trò khác nhau. Câu mở đoạn là câu nêu vấn đề; câu khai triển đoạn là câu phát triển ý được nêu ở câu mở đoạn; câu kết đoạn là câu khép lại vấn đề; câu chủ đề là câu mang ý chính của toàn đoạn. Vị trí của câu chủ đề tùy thuộc vào kết cấu của đoạn. Khi viết đoạn văn nghị luận phải đáp ứng được cả yêu cầu về hình thức và nội dung. + Về hình thức Đoạn văn phải được bắt đầu bằng chữ cái viết hoa lùi dòng cho đến dấu chấm kết thúc. Dung lượng đoạn văn khoảng 200 chữ - không thừa quá nhiều so với yêu cầu đề bài. + Về nội dung Đoạn văn phải đáp ứng được các nội dung đã trình bày ở các bước như trên đã hướng dẫn. Như vậy việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn NLXH cho học sinh được tiến hành qua năm bước. Trong quá trình hướng dẫn học sinh viết đoạn văn, giáo viên đi từng bước và hướng dẫn học sinh cụ thể để rèn cho các em kĩ năng viết đoạn văn vì đoạn văn nghị luận là một phần của văn bản nghị luận; góp phần xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng, một quan điểm. Trong bài văn nghị luận nói chung và đoạn văn nghị luận nói riêng, trong đó có đoạn văn NLXH cần hình thành được hệ thống luận điểm, luận cứ, luận chứng rõ ràng và lập luận chặt chẽ. Có thể triển khai một đoạn văn nghị luận bằng một trong các phương pháp diễn dịch, quy nạp, song hành, móc xích, tổng - phân - hợp. Nội dung thực nghiệm và kết quả Từ cách viết trên, người làm đề tài này đã áp dụng trong quá trình dạy học và ôn thi cho học sinh khối 12 với những đề bài cụ thể nhằm rèn luyện kĩ năng và đánh giá năng lực thực tế của các em. Từ đó góp phần tạo tâm thế chủ động của người học, với việc làm đó tôi xin trích dẫn một số nội dung bài viết và kết 10 quả thực nghiệm của học sinh trường THPT Nga Sơn về cách viết đoạn văn nghị luận xã hội như sau Đề bài 1 Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ của anh, chị về những hành động nhỏ làm nên người anh hùng giữa đời thường. Bài làm của học sinh Nguyễn Thị Thu Ngân lớp 12A, trường THPT Nga Sơn Anh hùng là người can đảm cống hiến trong mọi hoàn cảnh dù là khó khăn nhất, là một cá nhân hành động không vị kỉ và luôn đòi hỏi bản thân mình phải tốt hơn so với mức kì vọng của người khác,là người xem thường nghịch cảnh. Đừng nghĩ anh hùng là phải có sức mạnh phi thường, có đóng góp to lớn cho cộng đồng. Hãy suy nghĩ rằng anh hùng cũng chỉ là những con người bình thường như bao người khác, chỉ khác là họ luôn phấn đấu để hoàn thiện mình, sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn, mà không run sợ hay tính toán. Bài làm của học sinh Vũ Thị Tâm lớp 12A, trường THPT Nga Sơn Những hành động nhỏ là những việc làm nhỏ, bình dị trong cuộc sống hàng ngày. Người anh hùng giữa đời thường là cá nhân luôn sống và cống hiến những giá trị tích cực cho cộng đồng. Cái đẹp, cái tốt không nhất thiết phải là những cái lớn lao, kì vĩ. Những hành động nhỏ có ý nghĩa sẽ góp phần xây dựng và bảo vệ cộng đồng, tạo ra động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Cá nhân thực hiện hành động nhỏ cống hiến, có ích cho cộng đồng sẽ trở thành những người anh hùng giữa cuộc sống đời thường. Dẫn chứng Trong việc phòng chống tội phạm, những việc làm của các hiệp sĩ đường phố đã góp phần bảo vệ an ninh trật tự của các tuyến phố tại Thành phố Hồ Chí Minh, trong đại dịch SAT- Covid 2, những y bác sĩ, chiến sĩ công an, anh bộ đội, bà mẹ Việt Nam anh hùng, thanh niên, nhân dân,… đã có những hành động nhỏ bé như khám chữa bệnh, quyên góp lương thực, làm tình nguyện viên, tự giác cách li,… chính những hành động ấy đã cùng Đảng và Nhà nước góp phần chống lại dịch 11 bệnh thành công với lời kêu gọi “chống dịch như chống giặc”. Liên hệ đến hành động thực tiễn của bản thân. Đề bài 2 Từ bài hát “Ông bà anh” của Lê Thiện Hiếu đang được rất nhiều bạn trẻ yêu thích, có người cho rằng “Đừng bận tâm so sánh tình yêu xưa - nay làm gì. Dù ngày xưa hay ngày nay thì nó vẫn đẹp như nó vốn thế mà thôi”. Anh/ Chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ bàn luận về ý kiến trên. Bài làm của học sinh Lã Thị Hà lớp 12H, Trường THPT Nga Sơn Tình yêu là đề tài muôn thuở, là gia vị không thể thiếu trong cuộc sống của con người, đặc biệt là người trẻ. Lê Thiện Hiếu, một nhạc sỹ, ca sỹ trẻ đã đưa ra quan niệm về tình yêu của anh qua bài hát “Ông bà anh”, một bài hát được rất nhiều bạn trẻ yêu thích. Từ bài hát có ý kiến cho rằng “Đừng bận tâm so sánh tình yêu xưa - nay làm gì. Dù ngày xưa hay ngày nay thì nó vẫn đẹp như nó vốn thế mà thôi”. Quả thật là như vậy. Tình yêu là thứ tình cảm vô cùng đặc biệt và đẹp đẽ luôn tồn tại vĩnh cửu trong cuộc sống con người. Xưa- nay tình yêu vẫn thế, vẫn đẹp đẽ, tinh khôi, mãnh liệt và dữ dội như vậy. Tình yêu luôn là nguồn cảm hứng vô tận, tình yêu đi vào thơ ca, đi vào cuộc sống của con người. Chẳng phải mối tình Kim - Kiều trong “Truyện Kiều” là minh chứng rõ ràng, tiêu biểu nhất cho tình yêu xưa hay sao? Hay qua “Vội vàng” của Xuân Diệu, “Sóng” của Xuân Quỳnh, ta vẫn cảm nhận được tính chất của tình yêu xưa và nay mãnh liệt, dữ dội, dồn nén, khao khát đến trào dâng. Tình yêu vẫn thế, vẫn là nỗi nhớ, những kỉ niệm ngọt ngào của con người luôn được lưu giữ như một phần kí ức không thể nào quên. Tuy tình yêu xưa nay vẫn đẹp như thế nhưng cũng có một số bạn trẻ đã bỏ quên, đánh mất giá trị của tình yêu, xem tình yêu là một thú vui, là trò đùa. Bài làm của học sinh Mai Thị Phương lớp 12B, Trường THPT Nga Sơn 12 Tình yêu là một đề tài muôn thở của nghệ thuật và cuộc sống con người. Bài hát “Ông bà anh” của Lê Thiện Hiếu đang là nhạc phẩm được rất nhiều bạn trẻ yêu thích, nhưng mỗi người lại có một quan niệm riêng về tình yêu. Tình yêu là cảm xúc xuất phát từ con tim, song có người lại cho rằng “Đừng bận tâm so sánh tình yêu xưa - nay làm gì. Dù ngày xưa hay ngày nay thì nó vẫn đẹp như nó vốn thế mà thôi”. Tình yêu ngày xưa gắn liền với những chiếc xe đạp cũ kĩ, những bức thư tay đầy cảm xúc. Tình yêu ngày nay là tình yêu của những phương tiện hiện đại. Đề bài 3 Trong bài phát biểu nhân kỉ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, học giả Vũ Khiêu có câu “Để giàu sang, một con người có thể chỉ mất vài năm, nhưng để trở thành người có văn hóa có thể phải mất hàng chục năm, có khi cả cuộc đời” Anh/ Chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ bàn luận về ý kiến trên. Bài làm của học sinh Vũ Thị Yến lớp 12I, Trường THPT Nga Sơn Văn hóa là một khái niệm rộng bao gồm mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ khoa học cho đến nghệ thuật, từ đời sống tâm hồn, đến thói quen sinh hoạt, thị hiếu thẩm mĩ, giao tiếp ứng xử,... của con người. Còn trong câu nói trên tác giả bàn đến văn hóa của một người, là sự hội đủ của hai yếu tố văn hóa tri thức và văn hóa tinh thần. Đây là một ý kiến hoàn toàn đúng và xác đáng. Để giàu sang, một con người có thể chỉ mất vài ba năm, thậm chí ngắn hơn nữa bằng sự cần cù và sáng tạo trong lao động. Nhưng để hình thành nền tảng văn hóa tri thức, con người cần rèn luyện, tích lũy trong khoảng thời gian hàng chục năm khi ngồi trên ghế nhà trường và thậm chí trong suốt cả cuộc đời như Lê nin đã nói Học, học nữa, học mãi. Với giá trị văn hóa tinh thần cũng vậy, đó là vẻ đẹp tâm hồn, là đạo đức mỗi người phải tu dưnng suốt cả cuộc đời như tình yêu thương, nhân ái, lòng vị tha, khoan dung, sự sẻ chia, ý thức dân tộc, thái độ trân trọng lịch sử, văn hóa giao tiếp ứng xử giữa người và người trong cuộc sống,…Văn hóa tri thức và đạo đức nhân cách của con người có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. 13 Những người có trình độ cao thường là những nhân cách đáng trọng. Tuy nhiên điều đó không hoàn toàn đúng với mọi trường hợp bởi trên thực tế, nhiều người có trình độ văn hóa cao vẫn có thể có những suy nghĩ ấu trĩ và mắc những sai lầm trong giao tiếp văn hóa ứng xử. Ngược lại, có những người dù không được học cao nhưng nhân cách vẫn rạng ngời. Vì vậy, song song với việc bồi đắp tri thức văn hóa, chúng ta còn phải học làm người, tăng cường rèn luyện kĩ năng sống, bởi việc rèn luyện để trở thành người có văn hóa là quan trọng, cần thiết. Để đào luyện một con người có văn hóa cần có sự chung tay của cả gia đình, nhà trường, xã hội, đặc biệt là ý thức chủ động của cá nhân. Khi mỗi chúng ta tự mình rèn luyện thì “văn hóa” sẽ hiện hữu ở mọi nơi, cuộc sống sẽ ngày càng văn minh, hiện đại. Đề bài 4 Có ý kiến cho rằng “Con người từng ngày thay đổi công nghệ nhưng chính công nghệ cũng đang thay đổi cuộc sống con người”. Anh/ Chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ bàn luận về ý kiến trên. Bài làm của học sinh Mai Thị Xuân lớp 12I, Trường THPT Nga Sơn Đã bao giờ bạn tự hỏi nếu một ngày không có điện thoại, laptop hay những đồ công nghệ khác, cuộc sống sẽ ra sao? Chúng ta vẫn thường coi công nghệ như một điều thiết yếu của cuộc sống và nghĩ rằng những sự thay đổi đó là do con người. Nhưng ý kiến trên lại khiến chúng ta phải nhìn nhận lại, phải chăng công nghệ đang ngày ngày chi phối, định hướng hành vi, thói quen không chỉ của cá nhân mà của cả cộng đồng. Thuật ngữ công nghệ có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp, hàm nghĩa về các công cụ, kĩ năng và mưu mẹo của con người trong các hoạt động sống. Ngày nay, công nghệ được xem là hệ thống các phương pháp, công cụ, quy trình tạo ra sản phẩm vật thể và phi vật thể hay năng lực giải quyết vấn đề tối ưu. Con người đang ngày càng phát triển công nghệ nhưng cũng đồng thời lệ thuộc và nó, bị nó chi phối. Việc phát triển, biến đổi công nghệ là quy luật tất yếu, khi con người chủ động thay thế phần quan trọng cơ bản, cốt lõi hay toàn bộ công nghệ đang sử dụng bằng 14 công nghệ khác tiên tiến hơn. Công nghệ hiện diện trong mọi lĩnh vực của đời sống và đem đến cho chúng ta những lợi ích không thể phủ nhận cuộc sống chúng ta ngày một tốt hơn, tiết kiệm sức lao động,…Tuy nhiên, cũng có những ảnh hưởng tiêu cực khi sự lệ thuộc vào công nghệ ngày càng cao. Điều đó dẫn đến việc lười suy nghĩ, lười vận động, những mối quan hệ cũng trở nên lạnh lùng, khô cứng khi đa số lựa chọn duy trì việc gặp gn, trò chuyện, quan tâm qua mạng xã hội. Thế giới công nghệ còn khiến con người dễ rơi vào trạng thái ảo tưởng. Trong thời đại hiện nay, vẫn cần thiết phát triển công nghệ. Tuy nhiên, việc sử dụng công nghệ cần tiết chế phù hợp. Các cơ quan chức năng cần tăng cường quản lý, sử dụng công nghệ để phục vụ cho mục đích lành mạnh. Và mỗi người cũng cần cân bằng giữa việc sử dụng công nghệ và thực hiện trách nhiệm với cộng đồng, gia đình, để công nghệ trở thành công cụ phục vụ một cách hiệu quả cho cuộc sống của chúng ta. Hiệu quả của SKKN Có thể hiểu một cách khái quát về sáng kiến kinh nghiệm trong ngành giáo dục chính là những kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm mà người làm công tác dạy học đã tích lũy được trong côn tác giảng dạy và giáo dục. Với đề tài “Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn NLXHkhoảng 200 chữ cho học sinh THPT”, người viết đã tìm được hướng giải quyết phù hợp cho sự thay đổi với yêu cầu mới của đề thi. Ngay từ đầu chúng ta cần giúp học sinh nhận thức lại về môn Ngữ văn cũng như phương pháp tìm hiểu về nó. Bên cạnh yếu tố cảm xúc cần có trong quá trình dạy và học thì góc nhìn khoa học cũng không thể thiếu khi học sinh muốn hiểu, ghi nhớ và hệ thống lại kiến thức, nhất là qua các kì thi. Mục đích cuối cùng đã đạt được khi học sinh chủ động hiện thực hóa bài làm trong khung thời gian quy định mà vẫn đảm bảo yêu cầu của đoạn văn NLXH. Các em không còn bối rối với tâm lí “không biết bắt đầu từ đâu”, thay vào đó học sinh biết mình đang làm gì và làm như thế nào. Vì số điểm của câu NLXH không phải là cao 2,0 điểm nên học sinh cần tranh thủ thời gian để dành dung lượng cho câu NLVH. 15 Quan sát phần bài làm của học sinh trường THPT Nga Sơn, chúng ta thấy không phải bài làm nào cũng tốt, cũng đáp ứng yêu cầu cần và đủ của bài văn song dường như tính logic của tư duy khoa học khi triển khai một vấn đề đã được sắp xếp, bộc lộ khá rõ nét. Cá biệt có bài làm chưa hoàn chỉnh về dung lượng, cách dùng từ, diễn đạt cũng còn nhiều sai sót nhưng thứ tự các bước lại tương đối hợp lí. Điều này cho thấy khi chúng ta ý thức và định lượng rõ ràng về công việc phải làm thì mỗi người hoàn toàn đánh giá được kết quả công việc. Người viết đề tài đã triển khai vấn đề này trong tổ chuyên môn như một nội dung sinh hoạt thiết thực, ý nghĩa và nhận được những phản hồi tích cực. Vấn đề là phương pháp đã có song cần thường xuyên yêu cầu học sinh thực hành thì hiểu biết mới chuyển thành kĩ năng thực sự. Đây chính là mấu chốt của việc học nói chung và rèn kĩ năng luyện đề NLXH nói riêng. 3. Kết luận, kiến nghị Kết luận Đề tài này đã được ứng dụng hiệu quả trong thực tế dạy và học của giáo viên và học sinh nhà trường. Song song với đó là những bài học kinh nghiệm đã được rút ra. Làm việc gì cũng cần có hiểu biết cặn kẽ và phương pháp khoa học. Hiểu biết và phương pháp sẽ chỉ có ý nghĩa khi được vận dụng trong quá trình thực hành theo nguyên tắc “học đi đôi với hành”; khi thực hành nhiều sẽ chuyển thành kĩ năng, khi có kĩ năng việc viết bài sẽ trở nên đơn giản và nhanh chóng. Chúng ta không có tham vọng mọi học sinh đều sẽ đạt điểm cao ở tất cả các phần trong bài và các môn thi,đó là điều phi lí, phi khoa học. Nhưng qua việc học, ôn thi, luyện đề, giáo viên sẽ giúp học sinh nhận ra những bài học bổ ích trong học tập và cuộc sống như chúng ta luôn phải đấu tranh nỗ lực để vượt qua chính mình, chiến thắng và khẳng định bản thân, cần có kĩ năng để thích nghi với sự thay đổi, khác biệt, biết cách chấp nhận. Dạy và học luôn là quá trình chia sẻ với rất nhiều mối quan hệ giáo viên với giáo viên, giáo viên với học sinh, học sinh với học sinh. Khi có sự chia sẻ, 16 chúng ta sẽ có sức mạnh chung, niềm vui chung; biến quá trình giáo dục thành tự giáo dục. Kiến nghị Mỗi SKKN luôn là kinh nghiệm, là tư duy, là thực tiễn sống động, là bài học quý mà mỗi người dạy học đã rút ra, “trải nghiệm” sâu sắc với mục đích góp phần làm cho quá trình dạy và học trở nên thú vị, nhẹ nhàng, khoa học hơn. Đề tài đã được tác giả tâm huyết nghiên cứu, đầu tư kĩ lưỡng cả về chất lượng, nội dung và hình thức, rất mong hội đồng KH nghành xét duyệt và phổ biến rộng rãi giúp giáo viên và học sinh có thêm tài liệu bổ ích để giảng dạy và học tập. Bài viết chắc không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong các bạn đồng nghiệp bổ sung góp ý để bài viết được hoàn thiện hơn, cũng như ứng dụng vào việc dạy học cho học sinh lớp mình giảng dạy, đem lại cho học sinh những bài giảng hay hơn, cuốn hút hơn. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh Hóa, ngày 04 tháng 7 năm 2020 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Ký và ghi rõ họ tên Nguyễn Thị Hồng 17

kỹ năng viết đoạn văn nghị luận